Yếu tố cốt lõi để nâng cao chất lượng hàng hóa thị trường chứng khoán (TTCK) là minh bạch thông tin. Đây cũng là một trong các tiêu chí để nâng hạng TTCK từ cận biên lên mới nổi của MSCI và FTSE.
Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế IFRS là một thông lệ tốt trên thế giới, việc áp dụng sẽ giúp Việt Nam cải thiện chất lượng báo cáo tài chính, nâng cao tính minh bạch và chất lượng giải trình.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới. Do đó, việc áp dụng Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là xu hướng tất yếu và Chính phủ đang theo đuổi mục tiêu đưa IFRS vào Việt Nam.
Theo kế hoạch Bộ Tài chính, ngành sẽ ban hành 16 chuẩn mực kế toán công trong năm 2024. Đến nay, Bộ đã ban hành 11 chuẩn mực và hiện đang trình Lãnh đạo Bộ 5 chuẩn mực tiếp theo.
Ông Vũ Đức Chính, Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát giám sát kế toán, kiểm toán, Bộ Tài chính cho biết IFRS là một thông lệ tốt trên thế giới, việc áp dụng sẽ giúp Việt Nam cải thiện chất lượng báo cáo tài chính, nâng cao tính minh bạch và chất lượng giải trình của doanh nghiệp. Hơn nữa, việc áp dụng IFRS sẽ tạo tiền đề để Việt Nam nâng hạng thị trường chứng khoán.
Trước đó, ông Chính đã có buổi làm việc với bà Linda Mezon-Hutter, Phó Chủ tịch Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) cùng đoàn công tác thảo luận về một số nội dung liên quan đến kinh nghiệm áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) tại Việt Nam.
Xem thêm: Giải pháp chuyển đổi báo cáo tài chính IFRS cho kiểm toán
Theo ông Vũ Đức Chính, Việt Nam là nước mới tiếp cận với IFRS nên còn gặp nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình áp dụng. Trên thực tế, Việt Nam còn thiếu nguồn nhân lực hiểu chuyên sâu về IFRS. Trong khi đó, chi phí đầu tư ban đầu lớn và cần tạo dựng thói quen mới, nhất là về mặt tư duy cho người làm công tác kế toán…
Ngoài ra, ông Vũ Đức Chính chia sẻ Việt Nam khác so với một số quốc gia, cơ quan ban hành chuẩn mực ở Việt Nam là Bộ Tài chính, không phải các hiệp hội nghề nghiệp. Do đó, các chuẩn mực mà Bộ Tài chính ban hành sẽ trở thành văn bản quy phạm pháp luật, mang tính bắt buộc. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tính pháp lý của các chuẩn mực sẽ cao hơn so với các chuẩn mực được ban hành bởi hội nghề nghiệp như một số quốc gia khác.
Về điều này, bà Linda Mezon-Hutter cho biết Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế rất mong muốn được chia sẻ thông tin và kinh nghiệm các nước khác đã áp dụng IFRS, để đưa ra những nội dung phù hợp với số lượng đông đảo doanh nghiệp Việt Nam.
Để tạo điều kiện thuận lợi khi áp dụng IFRS tại Việt Nam, bà Linda Mezon-Hutter khuyến nghị Việt Nam cần đánh giá, phân tích chi tiết sự khác biệt giữa IFRS và các chuẩn mực, quy định trong nước, có thể nghiên cứu ban hành các tài liệu đánh giá và phân tích những điểm khác biệt, để công bố cho công chúng. Thêm vào đó, Việt Nam cần xây dựng và chuẩn bị cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho việc chuyển đổi.
Đặc biệt, bà Linda Mezon-Hutter nhấn mạnh cần chú trọng đến việc nghiên cứu, đào tạo về IFRS cho đội ngũ (nguồn nhân lực về kế toán, kiểm toán) cũng như các doanh nghiệp triển khai áp dụng.
Theo bà Linda Mezon-Hutter, Việt Nam nên tối đa hóa việc tận dụng các nguồn lực từ phía chuyên gia của các công ty kế toán, kiểm toán lớn trên thế giới và trong khu vực, có nhiều kinh nghiệm trong việc tư vấn áp dụng IFRS.
“Việc phân loại doanh nghiệp theo quy mô như Việt Nam đang làm là rất quan trọng vì không phải doanh nghiệp nào năng lực cũng giống nhau. Yếu tố này là điều cần thiết và có lợi cho Việt Nam trong tiến trình áp dụng IFRS,” bà Linda cho hay.
Với vai trò là cơ quan ban hành chuẩn mực, Vũ Đức Chính cho biết Bộ Tài chính luôn quan tâm đến việc thúc đẩy cho các doanh nghiệp áp dụng thành công IFRS đồng thời áp dụng những kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, tham mưu Chính phủ về giải pháp và kế hoạch triển khai phù hợp nhất đối với Việt Nam.
Nguồn: Vietstock
Xem thêm: Doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị cho chuyển đổi BCTC chuẩn IFRS: Thời gian đã cạn?